:: Diễn Dàn Dầu Khí Việt Nam::
  • Music
cửa hàng bán đồng hồ để bàn làm quà tặng nhân viên, nơi sản xuất trực tiếp đồng hồ kỷ niệm ngày quân đội
cơ sở bán đồng hồ kỷ niệm, đồng hồ để bàn quà tặng đại lý, nơi sản xuất đồng hồ uy tín
chuyen làm kỷ niệm chương vinh danh thành tích, sản xuất cúp pha lê họp lớp
công ty chuyên sản xuất kỷ niệm chương cài áo, bán sao vàng 5 cánh, nơi nhận làm kỷ niệm chương tuổi đảng
công ty chuyên sản xuất huy hiệu đảng, làm huy hiệu đại hội các khóa, nơi bán huy hiệu lá cờ theo yêu cầu
xưởng nhận làm bằng khen đại lý xuất sắc của năm, nơi bán bằng chứng nhận, sản xuất bảng vàng theo yêu cầu
sản xuất huy chương có sẵn, nhận đúc huy chương thể thao uy tín, nhận in ấn logo miễn phí
bán cúp nhựa giá rẻ, sản xuất cúp vinh danh, làm cúp bàn tay vàng trong ngành thẩm mỹ
chuyên bán sỉ lẻ cúp quà tặng, bán cúp vinh danh các cuộc thi, cúp đồng vinh danh
làm cúp trao tặng chuyên gia chăm sóc sắc đẹp, cúp vinh danh chuyên ngành làm đẹp
Nắp seal thùng phuy, nắp chụp thùng phuy, nắp vặn thùng phuy, 0908589618
Bao jumbo, big bag, bao PP dệt, 0908589618
Kẹp nắp phuy, kẹp nắp thùng, kềm bấm nắp seal thùng phuy, 0908589618
Seal niêm phong container, kẹp chì niêm phong, dây rút nhựa niêm phong, 0908589618
Giải mã bí ẩn đằng sau giấc mơ lấy chồng
A-Connection rất hân hạnh được đồng hành cùng với đối tác tin cậy trong lĩnh vực BĐS
E2S Việt Nam - Thiết bị Báo Động cho ngành Dầu Khí, Công Nghiệp
FPSO Maintenance Engineer
MÁY THỔI KHÍ ĐỘ ỒN THẤP CỦA TOHIN
Chất tẩy rửa sinh hàng gió AIR COOLER CLEANER





















Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]


Admin VNPetroleum
VNP

VNP

Lời tựa


Công cuộc tìm kiếm, thăm dò dầu khí ở Việt Nam đựoc tiến hành từ những năm đầu thập niên 60 do Tổng Cục Địa chất đóng tại số 6 Phạm Ngũ Lão – Hà Nội tiến hành. Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng. Vào tháng 9 năm 1975 Tổng Cục Dầu khí (TCDK) được thành lập, đứng đầu là Tổng Cục Trưởng Nguyễn Hòa. Do yêu cầu công việc, ba cơ sở là Viện Dầu-Khí, Công ty Dầu Khí 1, Công ty Địa- Vật lý được thành lập, chịu trách nhiệm tìm kiếm thăm dò dầu khí ở đồng bằng Sông Hồng và khu vực Biển Đông. Công ty Dầu khí 2 đóng ở miền Nam, thăm dò dầu khí ở đồng bằng sống Cửu Long và thềm lục địa phía Nam. Xí nghiệp LDDK Việt- Xô đựoc thành lập năm 1981 ở Vũng Tàu. Trải qua nhiều bước thăng trầm, những người lãnh đạo và vị trí đóng quân của các cơ quan đã nhiều lần thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế. Sự nghiệp dầu khí đạt đuợc kết quả rực rỡ vào thập kỷ 80. Lúc này Công ty Dầu khí 1 có nhiệm vụ chính là khoan và khai thác mỏ dầu, đang đóng quân tại Thị xã Thái Bình, do ông Nguyễn Ngọc Cư làm Giám đốc. Công ty Địa vật lý có nhiệm vụ dùng các phương pháp địa vật lý để tìm ra vị trí mỏ dầu, đóng quân ở miền Xuân Thủy do Trung tá Nguyễn Điền làm quyền Giám đốc. Viện Dầu khí có nhiệm vụ phân tích mẫu và tổng hợp tài liệu, do ông Hồ Đắc Hoài làm Viện trưởng, đóng quân tại Hà thành, Thị xã Hưng Yên. Vậy là ba cơ quan đóng quân tại 3 vùng, cùng chung nhiệm vụ thăm dò dầu khí và chịu sự điều hành của cơ quan đầu não là TCDK đóng quân ở Hà Thành.

Mô hình ấy có phần giống như ba nước Ngô, Ngụy, Thục thời Tam Quốc khi xưa, mỗi bên hùng cứ một phương, nhưng cùng là chư hầu của vua Hiến Đế. Với ý tưởng trên đây, dựa trên cơ sở người thực việc thực (có hư cấu ít nhiều) tác giả Phạm Quang Tú đã phỏng theo giọng văn Tam Quốc mà ghi lại một số sự kiện trong ngành, chí ít ra cũng phản ánh một thời kỳ quan trọng trong công cuộc thăm dò dầu-khí ở nước ta, cũng đặng mua vui cho bạn bè khi bữa tiệc trà bữa rượu. Trong bối cảnh ấy “Dầu khí diễn nghĩa” ra đời, bắt đầu từ tháng 7/1983 khi tác giả về nhận công tác trong ngành, tại công ty Địa vật lý ở Xuân Thủy- Hà Nam. Ra đời tại Xuân Thủy, sang quán Toan (Hải Phòng) rồi phiêu dạt tới Phà Rừng “Dầu khí diễn nghĩa” đã bị tam sao thất bản và được nhiều người thuộc lòng từng đọan. May thay, nguyên bản được ông Mậu người Algiêri gốc Pháp cùng phu nhân cẩn trọng bảo quản và giữ gìn, để mãi hơn 14 năm sau, vào buổi chiều ngày 30/8/1997 tác giả cùng người biên tập nhận lại tại Vũng Tàu.

Xin cảm ơn ông Mậu cùng phu nhân và tất cả những người từng hâm mộ “Dầu khí diễn nghĩa” đã giúp đỡ để bây giờ bạn đọc có được nguyên bản trên tay

Hồi thứ nhất
Mộng vàng đen thiên hạ xôn xao
Tế đất trời, chiêu hiền đãi sĩ



Vào năm Kỷ Hợi trời làm đại hạn, đất An Nam mất mùa, nạn cướp bóc nổi lên như trấu. Một thày địa lý người Nga La Tư tên gọi là KITOVANI sang đất An Nam chiêu tập vài chục dân binh để dò tìm long mạch và tìm kiếm vàng đen mà dân quanh vùng quen gọi là Dầu Khí. Hiềm vì xứ lạ quê người, địa thế gập gềnh, lam sơn chướng khí mịt mù nên công việc tiến hành chậm chạp, ròng rã mấy năm trời mà kết quả thu được chẳng đáng là bao. Sĩ tốt bẩm với KITO nên lập đàn cũng tế đất trời để cầu hiền đãi sĩ. KITO mừng lắm bèn dọn mình ăn chay cả tháng không gần gũi đàn bà, gội mình tắm rửa bằng nứoc lá thơm. Đọan sai sĩ tốt lập một đạo tràng bên cửa rừng rồi xõa tóc, đi chân đất, đập đầu xuống bên đàn tế. Cầu đảo ròng rã suốt bảy ngày bảy đếm. Đến khoảng canh ba tự nhiên có cơn gió to nổi lên, cát bụi mù trời khiến KITO sa sẩm cả mặt mày ngã nhào xuống đất. Trong cơn mê sảng KITO tháy có một thánh nhân chân đi hài đỏ, đầu đội mũ lông chim, tay cầm cây Thiết bổng, tự xưng là Thổ thần đất An Nam cai quản đám âm binh suốt một vùng Sơn Nam Hạ. Thánh nhân phán rằng, nội trong nửa tuần trăng sẽ có hiền nhân đến gặp mặt. Bất kể sang hèn phải mau trọng dụng thì việc lớn mới thành. Vừa nói tới đây mặt đất bỗng nứt ra ra hiện lên một chiếc kiệu vàng, Thổ thần nhẹ nhàng bước ngồi lên kiệu rồi cùng kiệu vàng biến vào lòng đất. KITO bàng hoàng, lập cập chạy theo chưa kịp đưa tay vái lạy thì có ánh chớp sáng lòe kèm theo một tiếng nổ long trời, mặt đất đã khép lại như xưa. KITO tỉnh dậy mới hay là một giấc mơ, mồ hôi còn vã ra như tắm.

Được Thánh nhân báo mộng KITO cả mừng bèn sai sĩ tốt cứ cách nhau nửa dặm một tên, rải kín mười bảy cánh rừng, mười ba ngọn suối, để dợi hiền nhân. Lệnh lại ban rằng bất kể giá nào cũng không thể rời bỏ vị trí. Hễ thấy bóng hiền nhân thì phải phi báo về ngay để KITO đích thân ra ngênh tiếp. Kẻ nào tự tiện bỏ về sẽ bị chiểu theo quân pháp, phải tội chém ngang lưng. Ròng rã đã bảy ngày đêm mà cả vùng sơn cước hoang vắng không có lấy một bóng người, nước uống lương thực mang theo đã cạn, khiến quân sĩ nhiều kẻ đói lả ngủ gục ở cánh rừng. Đôi ba kẻ liều mạng trốn về bị quân canh bắt được đóng gông giam vào ngục tối đợi khi xông việc rồi mang ra trị tội. Mãi tới ngày thứ tám vào khoảng chiều tàn quan canh báo về có một người trẻ tuổi, dáng dấp như kẻ thư sinh lỡ độ đường, muốn xin vào quân doanh ngủ trọ, KITO nghe tin, thất vọng vô cùng, nhưng còn bán tín bán nghi nên sai quân canh dẫn kẻ lạ vào ra mắt.

Thế mới thực là
Đã quyết một lòng cầu hiền sĩ
Thần linh ứng báo thấy được ngay

Không biết khách lạ đó là ai xem hồi sau mới hiểu.



Hồi thứ 2 :
Kitôvani gặp được người hiền
Kết anh em, anh hùng tương ngộ



Lại nói, vừa trông thấy khách lạ mắt sang như sao băng, cằm vuông cương nghị, giọng nói sang sảng như chuông đồng. KITO biết ngay đó là hiền nhân mà thổ thần báo mộng. Bèn thân hành tới tận thềm đón rước, lại quát tả hữu bày tiệc, sai mang thứ rượu đăc biệt mang từ cố quốc sang. Rượu này đã ủ trong lò bất quái hơn ba vạn ngày lại có pha huyết của Kỳ lân chín đầu và mật của Kim quy ngàn năm tuổi. Rượu ấy trong đời chỉ được uống có một lần khi gặp người tri kỷ. Sĩ tốt còn chưa hiểu vì sao Kito lại trọng vọng người này đến thế, thì lại bàng hoàng vì khách lạ nói được thứ tiếng xì xồ còn nhanh hơn cả tiếng An Nam. Hỏi ra mới biết khách lạ họ Nguyễn tên Giao, sinh hạ ở vùng Bình Định. Cụ tổ 21 đời nhà Giao là Tổng đốc tôn thần nhà Nguyễn cầm quân trăm vạn dẹp lọan Chiêm Thành, mở mang bờ cõi xuống phía Nam. Sau thấy nơi đây phong cảnh hữu tình lại nhiều vượng khí nên dừng chân ở đây lập ra một chi họ Nguyễn. Vùng này núi không cao nhưng thanh nhã, nước không sâu mà trong suốt, đất không rộng nhưng bằng phẳng, rừng không lớn nhưng rậm rạp, vượn-hạc quấn quýt, thông trúc um tùm, ngắm mãi cả ngày không chán. Nơi đây có thứ quả lạ mà dân đen quen gọi quả dừa, nổi tiếng cả một vùng suốt từ sông Hằng qua Tây Tạng sang đến tận Java. Trai gái Bình Định không chỉ giỏi võ nghệ, múa roi đi quyền mà cũng rất tinh thông chữ nghĩa thánh hiền. Trong số môn đệ người An Nam của Kito có kẻ khi xưa đã biết tiếng Nguyễn Gao bèn nói nhỏ với Kito rằng khi xưa Giao chỉ thường giao du với hào kiệt nhiều nơi. Những người kia học hành rất chăm chỉ nhưng Giao chỉ xem qua những đọan cốt yếu, thường ngồi rung đùi ngâm vịnh rồi chỏ vào dám bạn bè mà nói rằng: Các anh sau này có làm quan thì chỉ làm đến thứ sử quận thú là cùng. Họ hỏi chí Nguyễn Giao thế nào thì Nguyễn Giao chỉ cười không nói, thường bàn những chuyện lấp bể dời non. Số ýt những người hiểu Nguyễn Giao đều cho rằng sự nghiệp sau này của Nguyễn Giao rồi sẽ như Khương Tử Nha làm nên cơ đồ 800 năm nhà Chu hay Trương Lương Tử Phòng làm nên cơ đồ 400 năm nhà Hán, còn sức học của Nguyễn Giao hư thực thế nào mà sau này thiên hạ gọi là Sĩ Giao, vì bao nhiêu học hàm học vị cao ngất chín tầng trời như Tiến sĩ, viện sĩ, Giao đều giành được cả thì sẽ nói đến sau này.

Nay hãy trở về với việc Kito trọng đãi Nguyễn Giao, sau 3 tuần rượu Kito dẫn Nguyễn Giao ra phía bìa rừng khoát tay chỉ một vùng rừng núi bao la mà rằng: Bây giờ bốn phương lọan lạc, thiên hạ rối ren, dân chúng An Nam làm than cơ cực, cuộc sống quê mùa. Nay tôi muốn cầu đảo hiền tài để chuyển xoay trời đất, chắp vá càn khôn, giúp dân An Nam tìm được vàng đen để mưu đồ cuộc thái bình, dám mong tiên sinh hết sức giúp đỡ. Nguyễn Giao từ tốn đáp: Giao tôi bấy lâu nương náu chốn quê mùa, chân quen lội bùn đạp nước, tay quen đan sợi tơ dừa, chểnh mảng việc đời, chỉ e cái chí của ngài Giao không theo kịp.

Kito lại nói: Đất An Nam lam sơn chướng khí thế này, kẻ nói được tiếng ngoại bang và hiểu được Kito tôi không quá 10 người, nếu tiên sinh không muốn giúp cho thì việc tìm kiếm vàng đen rồi sẽ thế nào? làm sao để đời sống dân đen thóat khỏi vòng mông muội. Thấy Kito rất thật lòng muốn giúp người An Nam Giao mới nhận lời nguyện giành trọng cuộc đời cho việc tìm kiếm vàng đen. Từ đó Kito đãi Nguyễn Giao vào hàng thượng khách, ăn cùng mâm, ngủ cùng một chiếu, bàn chuyện thiên hạ tối ngày.

Kito nói: “ Theo sách tháng hiền thì vàng đen dạng lỏng, là nước đái của rồng đất ngâm qua ngàn năm biến đổi mà ra. Kho vàng nằm sâu dưới đất của Diêm Vương. Hiềm vì đời sống An Nam còn khốn khó, cơm không đủ ăn mà lấy đâu ra cọc sắt dài ngàn trượng để cắm xuống đất tìm biết nơi nao có dấu vàng đen. Trong tay chúng ta chỉ có chiếc búa cùn, balo rách. Chẳng hay tiên sinh có mẹo mực thế nào, ta hãy cùng nhau viết ra một chữ xem ý có giống nhau không”.Đọan quát tả hữu mang cho Giao một thẻ tre và một bút lông ngỗng. bản thân Kito cũng dùng bút lông viết vào một thẻ. Khi mở ra đối chiếu với nhau thấy cả hai cùng ghi một chữ: “Khảo sát vùng rìa”.

Kito thất kinh, ngửa mặt lên trời than rằng: “ Sinh ra ta là bố mẹ ta nhưng hiểu được ta chỉ có Giao này”. Thấy gặp người chi kỷ hiểu rõ lòng mình, Kito muốn cùng Giao kết làm huynh đệ. Thế rồi hai người uống máu ăn thề cùng nhau kết nghĩa anh em. Hỏi ra mới biết Kito hơn tuổi nên được làm anh. Vì đã là huynh đệ nên Giao cũng nhận thêm cả họ của Kito và gọi là Kito Giao. Từ đó anh em Kito suốt ngày trên ngựa sắt U-óat đi khảo sát khắp vùng. Tài sản của nhà Kito chỉ có balo, một cặp la bàn, mấy chiếc đèn pin và vài chiếc búa.
Anh em nhà Kito dãn quân vượt đèo lội suối, ăn uống đạm bạc như kẻ thảo dân. Nhiều khi quân lương không chi viện kịp phải uống nước suối, ăn quả rừng để sống qua ngày. Cánh quân của Giao đã dặt chân lên hầu khắp đất An Nam. Suốt một dải từ Nông Cống, Hoa Lư đến Móng cái, Ba Chẽ, Tiên Yên, vượt qua Tà Ô Sìn tới tận Mù Căng Chải. Tới đâu, quân của Giao cũng được dân đen chào đón vì họ cũng hy vọng tìm đựơc cvàng đen. Đến bây giờ trong dân gian có câu đồng giao rằng:

“Thiên hạ đồn lao xao
Vàng đen dấu nới nào
Muốn đi tìm cho được
Hỏi Kitova Giao”

Đi tới đâu anh em Kito cũng đo vẽ địa hình lấy mẫu quặng đá về xem rồi đánh dấu trên tấm địa đồ. Họ dùng màu tím của hạt mồng tơi và màu vàng của củ nghệ để tô lên tấm bản đồ có màu xanh đỏ tím vàng, mà người đời sau còn gọi là bản đồ địa chất. Lại cũng cho ra tấm địa đồ có cái tên rất lạ tai là: “ Khoanh vùng triển vọng” theo đó đã chỉ rõ nơi nào có dấu vàng đen. Sau này hậu thế cứ theo đó mà tìm thế nào cũng thấy . Theo địa đồ của nhà Kito thì vàng đen cũng như nước chảy xuôi về biển, ắt hẳn tập trung ở mạn Thái Bình từ Tiền Hải tới Kiến Xương qua miệt Đông Quan mà chạy dài ra ngoài biển Bắc mà đời sau gọi đấy là bể Trần tích Sông Hồng. Vàng đen lại chảy dọc đất Quy Nhơn rồi về tập trung ở vùng Cửu Long, Bạch Hổ.

Sau khi đã hoàn tất địa đồ và làm dấu cho hậu thế có thể tìm được vàng đen, một bữa gió heo may về đem cái lạnh thấu xuống ccứ An Nam khiến Kito chạnh lòng nhớ xứ tuyết, muốn trở lại cố hương. Kito cho tập hợp quân sĩ nói với họ rằng: Sự nghiệp cho hậu thế Kito tôi đã làm gần xong, nay vì thương nhớ mẹ già cô đơn, chiếc bóng nên đành phải ra đi mong anh em hãy hết lòng vì sự nghiệp vàng đen để tên tuổi được ghi vào tờ lụa, đừng như Kito này hữu thủy vô trung. Nguyễn Giao buồn bã nói với Kito rằng: huynh đi lần này phương trời cách biệt biết bao giờ mới gặp được nhau, nói dọan hai hàng nước mắt đầm đìa chảy tràn như suối. Kito khuyên Giao nên cùng mình sang xứ tuyết đẻ mở rộng bang giao, học thêm chữ thánh hiền tu luyện cho đến ngày đắc đạo. Địa đồ đã lập xong rồi, việc hút vàng đen lên hãy để cho hậu thế. Nguyễn Giao cũng cho là phải, thế rồi hai anh em Kito cưỡi chim sắt, xé gió bay lên trời trở về xứ tuyết. Nói về công lao anh em nhà Kito người đời sau có thơ rằng:

Trong tay vài dụng cụ đơn sơ
Hào kiệt dưng lên một cơ đồ
Vàng đen khai thác tuôn như suối
Công ây là nhờ họ Kito
Không biết hậu thế có tìm đựơc vàng đen và Giao có đắc đạo hay không xem hồi sau sẽ


Hồi thứ 3 :
Thấy sao rơi ứng với mệnh trời
Hội bờ hồ, anh hùng tương ngộ



Lại nói sau khi tin anh em nhà Kito đã lập xong bản đồ: “ Phân vùng triển vọng” chỉ rõ nơi nào có dấu vàng đen thất thoát ra ngoài. Nhiều kẻ phú nông cũng toan bán hết ruộng vườn, tập hợp họ hàng đào những hố sâu trăm trượng để tìm kiếm vàng đen mong sự đổi đời nhưng rồi nhà cửa ruộng vườn chỉ thấy đội nón ra đi mà không ngày trở lại. Thiên hạ bỏ cả ruộng vườn, bỏ quên canh cửi suốt ngày bàn chuyện vàng đen nhưng vẫn chưa có hào kiệt nào đứng lên mưu đồ việc lớn. Vào khoảng canh ba ngày dần tháng giêng cũng năm ấy có ba ngôi sao tụ lại rơi xuống đất Hà Thành, mọi người lấy làm lạ lắm.

Quả nhiên sáng sớm hôm sau, người dân đánh cá bên hồ Thuyền Quang thấy có ba người tướng mạo khác thường ngồi cạnh gốc cây họp bàn việc lớn. Người ngồi giữa tên gọi Nguyễn Điền là hào kiệt sinh hạ tại Quảng Yên, Điền vốn người hùng biện, có tài thu phục nhân tâm, khi xưa đã từng cầm quân đánh Đông dẹp Bắc được phong tài chức trung lang tướng quân, mà người đời sau quen gọi là trung tá. Sau vì chán cảnh nồi da nấu thịt Điền bỏ việc quân mưu tìm dầu khí. Người ngồi bên tả tên Hoài, tự Hồ Đắc vốn nhà dòng dõi trâm anh, mặt đẹp như ngọc, mình hổ tay vượn, bụng beo hông sói, tướng mạo phương phi. Người ngồi bên hữu là Cư tự là Nguyễn Ngọc, có sức khỏe hơn người, tính nóng như Trương Phi, quát to như sấm.

Sau chén rượu mở đầu, Điền mới cả cười mà nói rằng: “Tôi khi xưa đã từng cầm quân trăm vạn, đánh Đông dẹo Bắc, anh kiệt một thời, sau vì chán cảnh nồi da nấu thịt mà bỏ về mưu tìm dầu khí có lợi cho muôn dân. Nay nếu nước được các ông mang ra tài ra giúp thì việc lớn mới mong thành. Đắc Hoài vội đỡ lời: “Tôi vốn dòng dõi con nhà trâm anh, đọc rộng biết nhiều, thông thạo 36 cuốn kinh thi của Khổng Tử, biết được cái lẽ hơn thiệt ở đời, khiến cho nhân dân bốn phương thầm phục. Nay nếu các ông không giúp tôi phất cao cờ nghĩa, thì e không hợp với đạo người quân tử mà cũng trái với lẽ trời”. Cư nghe xong nét mặt hăm hăm, hất đổ chén rượu trên tay xuống đất, mà rằng: “ Cư đây vốn xuất thân là thày địa lý, dưới biết xem long mạch, trên thông thạo thiên văn mà còn e không làm nổi, nay các ông muốn giơ vai gánh vác lấy, nếu việc lớn không thành thì để thẹn cho muôn đời con cháu mai sau, há mà còn mặt mũi nào đứng trong trời đất này nữa?”.

Ba người còn đang to tiếng một hồi lâu mà vẫn không thống nhất được điều chi, thì chợt trong thấy một cụ già từ xa đi đến cả cười mà nói với họ rằng: “ các ngươi đều là người hào kiệt, nhưng không phục tài nhau. Nay ta bày cho các người một kế này thì chẳng những việc lớn mau thành, mà tên tuổi các ngươi cũng được đời đời lưu trong sử sách”. Cả ba thất kinh nhìn cụ già vừa tới.

Chưa biết người ấy là ai, xem hồi sau sẽ rõ.



Hồi thứ 4 :
Chén rượu thề, thiên hạ chia ba
Nguyễn Ngọc Cư tám đêm liền mất ngủ



Lại nói cụ già vừa đến từ xưng họ Nguyễn tên Hòa, vốn là trụ cột của Thiên Triều đang đi tìm người tài giúp nước. Bữa ấy đi dạo bên hồ, thấy có 3 người tướng mạo khác thường, biết đó là người hào kiệt Nguyễn Hòa mừng lắm, liền bảo với họ rằng: “ Bây giờ các ngươi ba ngã tự mình thu thập dân binh mưu đồ tìm đầu khí, kẻ nào tìm ra dầu trước thì mới đang mặt anh hào, muôn đời sử sách lưu tên, con cháu đời đời vinh hiển”. Cả ba đều cho là phải, họ bèn cùng nhau uống chung chén rượu thề rồi mỗi người đi về một phía.

Nguyễn Điền một mình một ngựa men theo bờ Sông Hồng nhằm phía Nam mà tiến. Đi tới đâu, Điền giở tài thu lhục nhân tâm tới đó, chả mấy chốc quân si tới vài trăm

Tháng 3 ngày 8, đêm không trăng
Tướng hai sao dẫn đầu vài trăm sĩ
Người ngậm tăm
Ngựa bỏ nhạc
Nhằm hướng thành nam thẳng tiến...

Sau bao ngày đêm người ngựa đã mệt, Điền bèn dừng chân nghỉ lại một thị trấn ven sông, ở đây bốn bề sông nước mênh mông, lau sậy um tùm, địa hình vô cùng hiểm trở. Điền bèn đi dạo một vòng mới thấy cá tôm đầy chợ, ngao sò ốc hến nhan nhản khắp nơi, hỏi ra mới biết đấy là vùng Xuân Thủy. Điền mừng lắm, bèn ra lời kêu gọi tụ hợp dân binh, lấy đây là nơi đóng quân hạ trại. Chẳng mấy lúc binh sĩ của Điền đã lên hơn 800 người. Để gây thanh thế, điền cho quân xây thành dắp lũy suốt đếm ngày, lại sai Đỗ Hậu mang thuyền lớn tàu to đi tắt qua đường Ba Lạt mà chiếm lấy vùng Vật Cách, Quán Toan. lại sai tuớng Đỗ Ngọc Vinh mang địa lôi đi chôn nổ khắp các cánh đồng, vì vậy thanh thế của Điền lên như diều gặp gió.

Đắc Hoài kéo quân về chiếm Hà Thành ở thị xã Hưng Yên, Phố Hiến. nơi đây bốn mùa hoa thơm cỏ ngọt, hồng xiêm lê táo rất nhiều và vốn dĩ một thời lừng danh là chốn kinh kỳ. Hoài cho xây thành đắp lũy rất kiên cố để tính kế lâu dài, lại dựa vào các hổ tướng của mình như Bàng Thống, Trọng Cán, Huy Quynh, nên lấy làm yên chí lắm.

Riêng Ngọc Cư mãi mấy tháng trời vẫn chưa tìm được nơi đóng quân hạ trại. Theo lời tâu của tướng tâm phúc, Cư kéo quân về thị xã Thái Bình, nơi đây lắm lúa nhiều khoai lại thông thương thuận tiện. Phía Nam là cảng Trà Lý có thể buôn bán với nước ngoài, phía Đông có cầu Bo chẹn lấy đuờng độc đạo sang phía Hải Phòng, phía Tây chỉ cần vượt phà Tân Đệ là chiếm được thành Nam.

Một bữa Cư đang ngồi trong trướng thì nghe tiếng địa lôi nổ ầm ầm. Theo tin thám báo mới về thì quân của Điền đã tràn sang tới vùng Đông Quan, Phượng Ngãi. Cư thất kinh vội tế ngựa ra bờ tả sông Hồng, nhìn sang Xuân Thủy thấy cờ xí ngợp trời, thuyền bè đầy sông, người ngựa đi lại tấp nập... bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng: “ Ta nghe nói Điền là kẻ anh hùng đời nay, lại là người có tài thu phục nhân tâm, đãi sĩ rất hậu. Trí của Điền lớn lắm, nếu để con giao long kia gặp bể thì cái họa ấy ta e không nhỏ”. Đọan đường về trướng của mình, bỏ cả cơm ăn thuốc hút, thức suốt mấy đêm ròng. Mãi đến đêm thứ tám, có kẻ xin vào hầu và bẩm với Cư rằng: “ Thần xin hiến đại vương một kế này, chẳng những việc lớn mau thành mà cũng tránh cho muôn dân cảnh nồi da nấu thịt”. Thế mới rõ thật là:

“Lo việc nước, anh hùng mất ngủ
Một kế hay trăm họ được nhờ”

Chưa biết người ấy hiến cho Cư được kế gì, xem hồi sau sẽ rõ


Hồi thứ 5 : Pham Tú tế hồn Mỏ Địa Chất
Giang Thịnh mưu đồ chiếm đất Hải Dương



Lại nói người đó là Cao Tất Toại, tên thật là Tôn Thất Toại, vốn dòng dõi cháu 10 đời của quan đại thần Tôn Thất Thuyết khi xưa từng thảo chiếu Cần vương giúp vua Hàm Nghi đánh Pháp. Thuở nhỏ Toại theo học một ông thầy họ Cao được thầy quý mến như con đẻ nên cho phép đổi theo họ của thày. Từ đó Toại mới có họ là Cao. Tọai vốn xấu trai, hình dung cổ quái, nhưng đọc rộng biết nhiều, thạo nghề phù thủy, xem tướng cho người không sai lấy một li, lại có tài ứng đối, nên rất được Cư tin dùng. Tuy không sinh hạ ở miền Vĩnh Bảo nhưng Toại lại nghiện thuốc lào. Sáng ra khi gà vừa gáy là Toại hút liền ba mồi thuốc, bữa sáng như vậy kể đã xong. Những lúc Cư gọi lên hỏi kế sách Toại cũng không quên mang theo ống điếu cày. Khi gặp việc khó khăn hay việc quân nan giải, Toại bèn ngửa mặt lên trời lấy hơi bắn liền mấy mươi điếu thuốc. Tinh thần bỗng trở nên sáng suốt lạ thường, miệng phán như thánh sống, tay chém không khí vù vù khiến trăm quan muôn phần vị nể. Khi đi khảo sát ngoài thực địa Toại thường xắn quần móng lợn, ống thấp ống cao, tay cầm theo điếu cày cùng một bịch thuốc đủ cho người thường dùng trong cả tháng. Tuy tướng mạo có vẻ xuề xòa nhưng Toại lại rất tinh thông vạn vật. cả một vùng duyên hải Thái Bình, không có đám cưới đám hỏi, cất nhà nào mà không mời Toại tới xem ngày giờ hướng đất. Tất cả những đám này về sau đều con cháu đầy đàn, tiến chức thăng quan, suốt đời phú quý. Cứ tài ấy mà suy thì Toại phải dự vào hàng khanh tướng của triều đình. Hiềm vì Toại tính khí ngang tàng, suốt đời không phục tài ai, lại hay khích bác các quan trong triều, kể cả đám cô chiêu cậu ấm của Hoàng gia nên Toại không được triều đình cất nhắc. Mãi đến khi tuổi đã xế chiều, lông mi đã bạc hết Toại mới được bổ nhiệm tả tướng quân mà về sau gọi là chức Trưởng phòng. Tiếc cho một đời tài hoa mà không gặp vận, âu đó cũng là căn nguyên của hai chữ đọan trường. Bữa ấy thấy Cư bỏ cơm ăn, thuốc bỏ hút, Toại liền bẩm với Cư rằng: “ Thần xem Kinh Thi thấy nói phía Bắc An Nam không đầy vạn dặm có giống người mắt xanh mũi lõ, lắm của nhiều tiền, lại giỏi nghề kiếm tìm dầu khí. Giống người này mình cao tám thước, ngồi kín cả một xe, lại nói tiếng xì xồ, líu ríu như chim khiến dân An Nam ta ít người hiểu được. Nay đại vương nên cấp cho họ ít lương bổng thật cao để họ hết lòng giúp đỡ. Lại nên động viên những kẻ trí giả vương trong vùng cố gắng mà học hỏi hoặc đánh cắp lấy những bí quyết của ngoại bang thì nghiệp lớn của đại vương chả mấy chốc mà thành, lại tránh cho trăm họ cảnh binh đao, công ấy không mấy đời có được. Cư nghe xong mừng lắm, bèn cấp cho các đạo sĩ ngoại bang xe tốt, ngựa khỏe, nhà cửa tiện nghi sang trọng nhất vùng. Lại sức cho ba quân phải tìm mọi cách mà học lấy bí quyết của ngoại bang. Phàm những kẻ được lòng ngoại bang hoặc họ được cấp chứng chỉ thì dù cho chưa có tiến chức, thăng quan nhưng lương bổng cũng được tăng vài bậc. Còn kẻ làm phật ý ngoại bang thì kể như vĩnh viễn không còn cơ hội thành người, chỉ có một con đường về quê lấy đít trâu làm thước ngắm.

Đám ngoại bang dạy cho quân của Cư dùng các ống sắt nối với nhau rồi cắm sâu xuống đất để hút lấy vàng đen, lại dạy ba quân cách dùng bóng đèn treo ngược thắp sáng cả một vùng. Cũng vì có chính sách ấy mà quân của Cư mạnh lên trông thấy, đã lăm le tính chuyện chinh phạt để mở rộng biên cương Đắc Hòai ở mạn hưng Yên, Nguyễn Điền ở miền Xuân Thủy thấy vậy cả sợ cũng vội vàng làm theo kế sách của Cư.

Vào năm Kiến An thứ 18, Điền lên ngôi vua, lấy hiệu là giám đốc, để an lòng dân mỗi tháng Điền cho xe chở tướng sĩ thăm quê hương xứ sở. Điền lại trích công quỹ thưởng cho ba quân, vì thế mọi người vui vẻ làm ăn. Suốt mấy năm liền, cả một vùng Xuân Thủy- Hà Nam sóng yên bể lặng.

Bấy giờ ở đất An Nam có nhóm sĩ phu khăn gói lên tận Mỏ Chè ở vùng rừng núi Thái Nguyên theo thầy học đạo. Sau năm năm sôi kinh nấu sử họ đã học được các phép lạ về địa lý, thiên văn, giỏi nghề đo đạc. Nghe nói ở vùng Xuân Thủy có Nguyễn Điền là đấng anh hào dùng người hiền chiêu kỷ sĩ, họ bèn rủ nhau xin gia nhập doanh trại của Điền, những mong được thi thố sức mình như thời vua Nghiêu, vua Thuấn xưa kia. Nhưng chẳng được bao lâu thì trong triều sinh biến, các tướng không lo việc nước chỉ mưu đục khóet của dân. Đời sống mọi người vô cừng cơ cực, tiếng kêu oan khóc khắp nơi, nhưng không thấu tới triều đình. Trộm cắp xuất hiện như rươi. Kẻ ở người đi, nhân tâm ly tán, mọi người chỉ chờ có cơ hội tốt để trốn khỏi doạnh trại của Điền. Tướng tài như Nguyễn Lộc thì bỏ Điền về ẩn với vợ con ở vùng Nhã Nam- Hà Bắc, hổ tướng Phạm Dương có gan chống lại triều đình cũng xúyt bị đưa ra chịu tội phải vội vã trốn về với Đắc Hoài ở mạn Hưng Yên. Các tướng như Trần Hòa, Nguyễn Xăng cũng treo ấn từ quan để xin về Tân Cầu tăng gia nuôi lợn.
Nghe theo lời quan xiểm nịnh, Điền lại bạc đãi cả với nhóm sĩ phu mới ở Thái Nguyên về. Mọi người chỉ còn biết ngửa mặt lên trời cùng nhau than thở, tiếc cho những năm kinh sử, sách đèn. Trong số các sĩ phu ấy có Phạm Tú là người sinh ra ở vùng Vĩnh Bảo- Hải Phòng, đất ấy nổi tiếng từ thời Mã Viện khi xưa, vì có thuốc lào ngon làm đồ cúng viếng lại là nơi văn vật, trẻ con mới lên ba đã thuộc sấm của Trạng Trình. Tú có tài học thuộc, nhớ lâu biết nhiều truyện từ thời Xuân Thu- Chiến Quốc, đi bảy bước làm xong một bài thơ, nên đuợc bổ nhiệm làm quan ngự sử ở trong triều. Cảm thương đồng đội Tú đã ngửa mặt lên trời mà than rằng:

“ Hỡi ôi! Quyết định ký rồi, lòng người trời tỏ
Gần 5 năm dày công bút mực, chưa biết tấm lòng xanh đỏ ra sao
Bị bật sới xuống đây, tin buồn ấy tiếng nghe như sét đánh
Nhớ khi xưa:
Đêm thức tàn canh, chăm lo đọc sách, lo lúc vào thi chỉ mong thày gặt
Luộc sắn, luộc mì, lật giường, cậy giắt, tay vốn quen làm
Giật tranh, giật mái, đốt quần cổng trường, mặt ta từng ngó
Bữa thấy đàn anh ra công tác, nghĩ cũng hay hay
Ngày nghe thấy nói thưởng nhiều, cũng muốn đi xuống thử.
Khá thương thay!
Vốn chẳng phải đam mê công việc, theo đòi để lấy tiếng thơm
Chẳng qua vì không chốn nương thân, bất đắc dĩ phải về đây cho qua chuyện
Nào ai đòi, ai bắt, gắng mà theo cho kịp bạn bè.
Chẳng cần tiếng Nhật, tiếng Tây, thân hèn kém mong chi thứ ấy
Ngòai cạt có một manh áo bạt, nào đợi mang găng tốt ủng bền
Trong tay cầm một cuộn màn chăn, không cần chiếu dẫu đêm nay giá rét
Thổi cơm rút trộm tranh lá mía, mỗi bữa ăn phải mượn nồi xoong.
Ba tên trùm một chiếc chăn bông, cũng gắng sống hết mùa đông năm nọ
Không mặc không diện, có thứ gì bán sạch
Rượu chè suốt sáng cho vơi nỗi lo toan
Nào sợ hàng năm có thưởng nọ thưởng kia
Thứ bảy ta về, liều mình như chẳng có
Kẻ xin đi, người chối ở, làm cho trương phó phòng lắm lúc đầu đau.
Bọn hò trước, lõ ó sau, lúc họp hàng quý bình bầu xét thưởng
Những mưu việc lớn không thành, biết đâu sức tàn lực kiệt
Ôi thôi thôi! năm đây đợi đi Nga không đến lượt
Tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm
Ngồi nghe Tây họ nói xì xầm, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ
Đau đớn thay mỗi đợt bình xét thưởng, phận mình đây sao mãi cứ “C” hoài
Não nùng thay vợ yếu đợi chồng về
Không có lấy một đồng xu dính túi
Nghĩ khi xưa lúc còn đi học: ngày ngày ăn sắn luộc mà vui
Nhìn lại bạn bè, lòng lại mơ về Trường Mỏ
Kỹ sư làm chi 300 đồng bạc, lo tiền ăn, lo áo mặc, nghĩ lại thêm buồn
Kỹ sư làm chi chỉ thấy thiếu tiền, chia rượu lặt gặm bánh mỳ nghe càng thêm khổ
Thà trước mà đừng ham đọc sách đi về chạy chợ cũng vinh
Hơn là học tiếng Nhật, tiếng Tây ở mãi nơi đây rất khổ.
Đất Xuân Thủy xa xôi mờ mịt, thân nằm đây nhưng dạ nhớ đô thành
Thương vì hậu thế mai sau, nên cố gắng gửi mấy lời chúc lại”

Vì bài văn tế ấy, người đời sau có thơ khen Phạm Tú rằng:
“ Phạm Tú sinh ra trên đất thuốc lào
Tuổi trẻ nhưng mà có chí cao
Văn tế tỏ lòng thương đồng đội
Ngàn năm nhớ mãi bậc anh hào”

Trong triều đình bấy giò có Giang Thịnh là kẻ đa mưu, bấy lâu vẫn được Điền dùng làm mưu sĩ. Thấy vận nước ngã nghiêng, Thịnh bèn làm sớ tâu với Điền rằng: “Đại vương đóng quân ở đất Xuân Thủy này, tuy lắm cá nhiều tôm, mênh mông sông nước, lau sậy um tùm, địa thế vô cùng hiểm yếu. Nhưng đất này nơi quần ngư tranh thực, lại bất lợi về mặt giao thông. Nếu nay mai quân của Liên Doanh theo đuờng biển từ phía Nam kéo ra chiếm lấy một vùng Ba Lạt, quân của Ngọc Cư từ Thái Bình theo đường đò mộ đaok tiến sang, còn quân của Đắc Hoài vượt qua phà Triều Dương mà chiếm lấy cầu treo Nam Định, bịt con đường độc đạo xuống đây, lúc đó e rằng đại vương giở tay không kịp, nghiệp lớn của đại vương chỉ chốc mà tiêu tan. Chi bằng ta hãy kéo quân ra chiếm lấy khách sạn Hải Dương tiện bến tàu xe, đất rộng người đông tha hồ mở mang bờ cõi. Lại có thể liên kết với tướng Đỗ Hậu ở Hải Phòng tạo thành thế chân vạc, đầu đuối có thể ứng cứu được nhau, thì dẫu Đắc Hoài có hợp tác với Ngọc Cư đã dễ gì phá được. Việc gấp lắm rồi xin đại vương hãy mau mau quyết định. Điền nghe Thịnh tâu xong chỉ ngửa mặt lên trời cưới ngất, rồi vẫy tay truyền cho Thịnh lui ra. Chua biết ý của Điền ra sao, xem hồi sau mới hiểu


Hồi thứ 6 :
Cơn gió to báo hiệu chẳng lành
Lấy lòng dân Nguyễn Điền viết hịch



Lại nói sau khi nghe Thinh tâu, Điền cả mừng bèn sai các tướng sửa sọan ngựa xe, điểm hơn ngìn binh mã, chọn ngày lành tháng tốt kéo quân đi. Đại tướng Nguyễn Giáp được cử làm tướng tiên phong. Lại nói, Giáp vón người sịnh hạ miền Duyên Hải- Hải Phòng, tướng mạo khôi ngô, tính khí hiền lành, dáng người nho sĩ. Thuở nhỏ giáp thường bị bọn trẻ trâu trong làng bắt nạt, làm cho bố mẹ rất phiền lòng. Một hôm nằm mơ Giáp thấy sao Văn Xương sa xuống nóc nhà. Quả nhiên sáng hôm sau có một nốt ruồi dỏ mọc ngay bên cạnh huyệt đan điền. Dân làng biết đó là quý tướng, bèn khyên bố mẹ Giáp cho Giáp lên kinh kỳ theo thầy học đạo. Quả nhiên sau này Giáp làm quan to, lại là người có đức độ nên được ba quân mến phục, mà Điền cũng rất tin dùng.
Thống lĩnh trung quân là mưu sĩ Giang Công Thịnh, người xứ Thái Bình vốn đọc rỗng hiểu sâu, lại có tài uốn ba tấc lưỡi, nghĩ ra nhiều mẹo mực, thích xử thế công việc theo cách nghĩ của ngươi tàu. Tuy chức tước không to, chỉ là mưu sí, nhưng Thịnh thường góp tay chèo lái công việc trong triều khiến cho lắm kẻ phải đem lòng vị nể.
Thống lĩnh hậu quân là quan hành chính Trần Hoạt, chuyên lo ngựa xe, lương thảo. Việc chuẩn bị chưa xong thì bống đâu bão lớn đổ về, người ngữa, lợn gà, thương vong vô kể, đồn lũy tan hoang, nên khi vừa tan cơn bão Điền vội lệnh cho Giáp dẫn quân đi. Bữa ấy mưa to, kẻ ở người đi tiễn nhau dài hàng hàng mấy dặm. Nói về buổi tiễn đưa hôm ấy, người đời sau có thơ rằng:

“Hành trang sắp đặt gọn gàng
Mối sầu xẻ nửa dặm đàng chia hai
Buồn trông Xuân Thủy quê người
Nhà siêu vach nát, rã rời lau thưa
Ngoài trời lác đác rơi mưa
Ngổn ngang cây đổ lá xơ xác vàng”

Giáp kéo đại quan tứoi phà Lạc Quần thì trơi vừa tối, quân lính sửa sọan bắc cầu qua sông thì bỗng đâu sóng gió nổi lên, mây kéo đầy trời. Trên mặt nước có rất nhiều hình người dắt tay nhau nhảy múa, tiếng kêu khóc vang rền cả một khúc sông. Giấp thất kinh, vội xuống ngựa hỏi một cụ già mới hay rằng: Tại khúc sông này trong trận huyết chiến năm xưa có nhiều người bị chết oan dưới hòn tên mũi đạn. Vì thế, chiều chiều khi vàng mặt trời, các oan hồn thường hiện lên quấy nhiễu. Giáp thấy vậy bèn gội đầu tắm rửa bằng nước lá thơm, lại sai lập một đàn tràng bên vờ sông rồi đập đầu xuống đất tế.
Tế rằng “Than ôi!
Trời thẳm đất dày, gió mưa sùi sụt.
Tấm lòng thương tiếc, tưởng nhớ vong hồn.
Nhớ các quan xưa!
Trí rộng tài cao, hết lòng giúp nước, một gánh quan hà giữa đường lâm nạn
Sống đánh giặc, chết cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh
Sống thờ vua, chết cũng thờ vua, nào đợi gươm hùm treo mộ
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương.
Vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Từ đây đất vàng một nấm, bão táp mưa sa, ngàn năm không người thăm viếng.
Giáp tôi thành khẩn, có chút lễ thường, kính biếu các ngài, dám mong soi sét
Than ôi!
Thượng hưởng!
Đọan sai ném 49 thủ lợn xuống lòng sông. Quả nhiên chỉ một lúc sau mặt sông phẳng lặng như tờ, mây đen tan hết. Các hồn ma bóng quỷ cũng theo chiều gió mà tan đi, người ngựa qua sông rất an toàn. Khi kéo quân tới bờ sông Nhị Hà thì trời sẩm tối, Giáp cho quân dừng lại thổi nấu ven sông.
Sáng sớm hôm sau, vào độ canh 5 bỗng đâu có một cơn gió mạnh thổi lên làm gãy lá cờ suy trung tâm. Đám trẻ bán táo bên cầu lại dắt tay nhau mà hát:

“Gió hắt hưu nước sông Nhị lạng tê
Tướng sĩ đi trận mong chi ngày về”

Tiếng hát thật buồn làm não lòng quân sĩ. Tướng tâm phúc cuả Điền là Chí Hiếu bấm độn biết ngay là điểm gở bèn bẩm với Điền rằng: “Đại vương kéo quân ra Hải Dương thật hợp ý trời, song thần e đường sá xa xôi lại chưa xây xong đồn lũy khó lòng mà giữ được. Chi bằng ta hãy tạm rút về Xuân Thủy để tích thêm lương thảo, một vài năm nữa hãy kéo quân đi cũng chẳng vội gì”. Điền nghe xong giận lắm mắng Hiếu rằng: Ta thương nghe Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ, Thôi Tử cắt thịt đùi nấu cháo cho vua, sách lại dạy rằng: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu (nghĩa là vua bảo chết thần chết, thần không chết không trung...). Người xưa còn như vậy, nay sao nhà ngươi không noi theo gương cổ nhân, còn khuyên can ta rút quân, làm nản lòng quân sĩ? Đọan quát võ sĩ lôi Hiếu ra chém. Ba quân xúm lại can mãi Điền mới tha cho, nhưng cũng bắt Hiếu lưu đày ra ngoài Quán Toan- Chùa Vẽ.
Qủa nhiên theo như điềm báo, ra tới Hải Dương một tuần mà Điền vẫn loay hoay chưa tìm được nới đóng quân hạ trại. Phần thì không hợp thủy thổ, phần thì đường sá xa xôi không vân chuyển được lương thảo khiến cho Điền phải lệnh rút quân về. Trên đường rút chạy, xe cộ hỏng hóc không biết bao nhiêu mà kể, người ngựa đâu ốm rất nhiều. Từ đó trở đi, đời sống dân tình càng thêm khốn khổ, quân sĩ càng mất lòng tin ở Nguyễn Điền. Thấy vậy Điền bèn cho triệu tập đông đủ ba quân, áo mũ chỉnh tề rồi tế ngựa ra dưới cờ mà truyền hịch:
Hỡi ba quân!
Ta cùng các ngươi sinh ra phải thời lọan lạc, lớn lên gặp buổi gian nan, thấy bọn tiêu cực đi lại nghênh ngang ngòai đuờng, lấy cớ lắm tiền mà sỉ mắng người nghèo, đem thân ngu dốt mà bắt nạt mấy thằng kỹ thuật. Lại mượn cớ nóng nực mà đòi tủ lạnh, bịp bợm dân đen mà vơ vét quạt trần. Của công ty có hạn mà lòng tham của chúng khôn cùng, thật khác nào mang thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau?
Ta thường cắt bữa cơm trưa, bỏ ăn suất sáng, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa. Chỉ căm tức vì chưa tìm ra được mỏ. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài thực địa, ngàn xác này gói trong báo cáo, ta cũng cam lòng. Nay các người ở cùng ta nghiên cứu dầu khí đã lâu ngày, không có ngựa thì ta cho xe, đi công tác ta cho phụ cấp, thăm dò trên bộ ta cho mìn, thăm dò dưới biển ta cho tàuthủy. Lúc bị sự cố thì cùng nhau sống chết, lúc có tiền thương thì lại cùng nhau vui cười. cách đối đãi so với vương Công Kiên cốt đãi Ngột Lung ngày trước phỏng có kém gì.
Nay các ngươi nhìn Tổng Cục ngày càng thu hẹp mà không biết lo, thấy lái xe xem thường dân kỹ thuật mà không biết thẹn, học nước ngòai về mà sống ở Xuân Thủy mà không biết tức, chỉ lấy việc đánh cờ, đi quán làm vui, lấy việc mua xổ số làm trò tiêu khiển, hoặc ham lợn gà mà quên việc đọc sách, hoặc lo quấn thuốc mà quên việc can in.
Nếu mai đây quân Liên Doanh tràn ra, thì tàu Bình Minh của ông Hậu địch sao được với tàu Pôisk của địch, can mắm tép của ông Uy tuy đỏ cũng không địch được với thịt hộp của quân thù. Thuốc cuộn của bà Thi tuy ngon cũng không làm địch say mà chết, đàn lợn của ông Hoa tuy đẹp cũng không làm cho địch thất kinh. Lúc bấy giờ ta cùng các người sẽ bị cách chức, dau xót biết chừng nào. Chẳng những lợi nhuận quý tư của ta không còn mà tiền thưởng quý ba của các người cũng mất. Cơm chiều xong, dẫu các ngươi có muốn rong chơi tán gái, phỏng có được ru? Rồi mai đây, con cháu sẽ cười chúng ta rằng gần 20 năm hao tiền tốn của mà không tìm ra được một giọt dầu. Tiếng dơ khôn rửa, tiếng xấu còn lưu, há còn mặt nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra hịch này để các ngươi biết bụng ta”.

Thế mới thực là:
Hịch dầu khí nức lòng tướng sĩ
Mộng Hải Dương liệu mất hay còn”
Không biết Nguyễn Điền có kéo quân ra Hải Dương một lần nữa hay không, xem hồi sau sẽ hiểu.


Hồi thứ 7 :
Hội ba bên cắt đất cầu hòa
Chiếm Hải Phòng kế nhờ Trí Liễn



Lại nói sau khi đại bại ở Hải Dương, mọi người càng mất lòng tin ở Điền, tướng lĩnh dao động, sĩ tốt hoang mang, kẻ ở người đi, nhân tâm ly tán. Thêm vào đó, bọn giặc cỏ ở vùng duyên hải bẫi Đồ Sơn lại nổi lên quấy nhiễu, khiến cho Điền phải cử thêm bộ tướng là Alikha ra cùng Đỗ Hậu bàn mưu giết giặc, giữa lúc việc nước ngổn ngang lại có tin: “ Mưu sĩ của Đắc Hoài là Bàng Thống, nội có một ngày đếm đã chiếm xong vùng Thành Công- Giảng Võ. Thống lại sai sĩ tốt ngựa khỏe lên tận miền Trung du chở gỗ tốt về cất nhà xây thành đắp lũy tính kế lâu dài. Thế của Thống như trẻ tre khiến chúng thần rất lấy làm lo lắng.
Lại nói Bàng Thống khi xưa đã từng cầm quân trăm vạn đánh dẹp trọn vùng Kinh Bắc. Vốn xuất thân là thầy địa lý nhưng Thống nổi tiếng là người đức độ, có tài thu phục nhân tâm. Thuở còn hàn vi theo thầy học đạo Thống được thầy yêu mến dạy cho các bí quyết của 2 cuốn ”Thái ất thần kinh” và “Âm dương vạn vật” nên Thống hiểu được các lẽ hơn thiệt ở đời, giỏi nghề địa lý thiên văn, có tài nhìn trên mặt đất mà biết được nhiều việc âm phủ. Về sau Thống đem binh mã về với Đắc Hoài. Mấy chục năm liền hùng cứ một vùng thị xã Hưng Yên. Sau vì thấy Hưng Yên thông thương cách trở, mới bàn với Đắc Hoài chiếm lấy Thành Công để tính chuyện lâu dài. Vì thế người đời sau có thơ khen Thống rằng:

“ Bàng Thống tiên sinh lắm mẹo hay
Địa tầng nghiền ngẫm suốt đêm ngày
Lại giỏi dụng binh tài thao lược
Giảng Võ – Thành Công chiếm được ngay”

Nghe chúng tâu vậy Điền vội thất kinh bèn gọi Giang Thịnh vào hỏi han kế sách. Thịnh Tâu: “Kẻ bầy tôi nay được tin: lâu nay bọn thủy quái ở Biển Đông thuờng hiện về quấy nhiễu làm cho tàu Bình Minh mấy phen mắc cạn ở đảo Cát Bà. Quan đại thần Trần Thụ lại sinh thêm con gái thứ ba khiến trong lòng buồn bực, chỉ thích rượu chè, không thiết gì tới việc quân nhung. Mà thế của Hoài thì đang mạnh lắm, Bàng Thống kia chiếm Hà Thành ắt có dụng ý chi đây. Tướng của Ngọc Cư là Trần Hồi cũng đã chiếm xong hai nhánh nâng Khóai Châu- Tiền Hải, lại đang lăm le thôn tính nốt vùng vát nhọn ở Vĩnh Bảo – Đông Quan. Nếu họ kéo quan tắt qua Vũ Tiên sang đấy đánh úp thì Xuân Thủy, Hải Phòng đầu đuôi không ứng cứu được nhau, nghiệp lớn của đại vương e khó lòng giữ được. Chi bằng ta hãy cắt cho họ một phần đất để cầu hòa, tĩnh dưỡng sức dân lại có thời gian mà sửa sang đồn lũy”.
Nghe Thịnh tâu xong Điền bèn ngửa mặt về phương Tốn mà khóc rằng: “Mộng chiếm Hải Dương đã không thành giờ lại cắt đất cho địch thì bao giờ thu phục được giang sơn”. Người đời sau có thơ rằng:

“ Mộng chiến Hải Dương đã không thành
Tổn hao công sức đám dân lành
Cắt đất cầu hòa dân bớt khổ
Can gì phải khóc với trời xanh”

Nhưng cực chẳng đã Điền phải nghe theo, bèn sai người thân tín mang thư đi để cầu hòa. Tiếp đựoc thư Điền, Ngọc Cư và Đắc Hoài mừng lắm, bèn cử các tướng của mình theo ngày giờ đã hẹn trong thư tới Xuân Thủy cùng Điền thương nghị. Trong số các tướng chỉ có Trọng Cán là người lão luyện việc quân. Cán khi xưa xuất thân từ thầy địa lý, biết xem long mạch lại có tài quấn thuốc ngon nổi tiếng một vùng, người đời sau có thơ khen Cán rằng:

“Khen anh Trọng Cán lắm tài sao
Thuốc cuộn anh làm bán giá cao
Thế mà anh vẫn mê kiến tạo
Địa lũy mũi nhô với địa hào”

Sau một ngày thương nghị, Điền đã đồng ý trao cho Đắc Hoài tấm bản đồ Khóai Châu- Kim Động. Lại cho Ngọc Cư một vùng từ Phượng Ngãi tới Kiến Xuơng. Sau bữa đại tiệc, các tướng của Đắc Hoài và Ngọc Cư lên ngựa xe vui vẻ ra về, chỉ có Nguyễn Điền cũng các hạ bộ của mình vẫn ngồi bàn việc lớn.
Ngồi trên ngai vàng, Nguyễn Điền châu mày mà phán: “từ ngày tướng Giáp đại bại ở Hải Dương, trẫm thấy trong lòng buồn bực không yên, nay lại phải cắt đất cầu hòa khiến trẫm càng thêm lo lắng. Chỉ e mất nốt vùng Xuân Thủy thì trẫm và các khanh không còn đất mà gửi nắm xương tàn. Vậy các khanh có kế gì hãy giúp trẫm”.
Mọi người nhìn nhau không ai nghĩ được kế gì, thì quan đại thần Trần Thụ bỗng nói to lên rằng: “Tướng quân Trí Liễn khi xưa có để lại một kế này có thể phá tan giặc dữ”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm và cùng giục Thụ nói ngay.

Lại nói Trí Liễn vốn hào kiệt sinh hạ ở miền Thanh Hóa, nhà dựa lưng vào dãy Hoành Sơn, phía tả cách Hàn Rồng không đầy nửa dặm, phía hữu quay ra sông Mã. Thật là danh lam thắng cảnh sơn thủy hữu tình, khí thiêng sông núi quần tụ nơi đây. Ngay từ thuở nhỏ Liễn đã nổi tiếng vì tính khí ngang tàng, cầm đầu lũ trẻ trong làng vượt sông Mã như trở bàn tay. Một hôm có thầy phù thủy người Tàu ghé vào làng dò tìm long mạch, thấy Trí Liễn là người khí khái lại có tướng mạo khôi ngô, đã đóan rằng sau này Liễn không làm tới Bá Vương thì cũng dự vào hàng công hầu khanh tướng. Quả nhiên len kinh kỳ theo học được vài năm Liễn đã nổi tiếng là người có tài kinh bang tế thế, miệng nói thực thực hư hư, biến hóa khôn lường, khiến người đời không hiểu được. Liễn đã từng nhiều phen bôn ba hải ngoại, học được nhiều phép lạ trong việc nổ mìn khúc xạ sử dụng địa lôi, từng cầm quân trăm vạn đánh dẹp một vùng từ Nam Định tới Kiến An. Sau đem binh mã về làm quan dưới trướng của Nguyễn Điền. Được thời gian, chán cảnh triều đình lục đục, Liễn bèn trao trả ấn tín cho Điền và nói rằng muốn đi chu du thiên hạ một phen, Điền nghe nói vậy cầm tay Liễn khóc mà rằng:

“Giữa lúc tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu
Việc thu nổ thiếu kẻ đỡ đần
Khi phương án thiếu người bàn bạc
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ai giúp trẫm lúc gặp gian nan?”

Nhưng Điền nói thế nào Liễn cũng không nghe. Sau khi từ biệt bạn bè, Liễn bỏ lại gia quyến vợ con ở miền Xuân Thủy một mình tế ngựa ra đi. Mọi người tiễn Liễn tới bờ sông Nhị Hà, nét mặt ai cũng buồn rầu như thái tử nước Yên tiễn Kinh Kha đến bên bờ sông Dịch. Tới bờ sông Liễn rút ra một gói nhỏ bảo với Thụ rằng: “Cũng chỉ vì việc nước tôi phải ra đi, khi nào quốc gia nguy biến thì hãy mở gói ra, mẹo mực trong này đã ghi đủ cả. Cứ như thế, như thế mà làm”. Nhìn bờ sông mờ mịt, Liễn ngửa mặt lên trời mà than rằng:
“Những tưởng đường đời phẳng lặng, gió đàn vương thuận nẻo, tha hồ xe ngựa ngênh ngang. Nào ngờ thế cuộc xoay vần, lận đận bước công danh, nghĩ vận nước càng ngao ngán nỗi”, đọan tế ngựa ra đi. Mọi người nghe xong cảm động vô cùng, bá quan đầm đìa nước mắt.

Thụ kể tới đây bèn rút túi mở cẩm nang ra thì chỉ thấy một hàng chữ vàng ghi trên giấy lụa: “Đồ Sơn nhất đái, khả dĩ vãn đại dung thân”, tức là “ Đằng đằng một dải Đồ Sơn, có thể dung thân muôn đời”.

Vì thế người đời sau có thơ khen Trí Liễn rằng:
“ Nửa đời tóc ngả màu sương
Vì đâu Liễn phải tìm đường vào Nam
Bỏ bao công việc chưa làm
Đời sau mới biết Liễn hao Hải Phòng
Mưu đồ chiếm cả biển Đông
Ra đi, Trí Liễn vẫn mong ngày về”

Chưa biết Nguyễn Điền quyết định ra sao, xem hồi sau sẽ hiểu


Hồi thứ 8 :
Phép dụng binh địa chấn địa tầng
Hội nghị bàn bỏ đất liền ra biển



Giũa lúc Điền còn phân vân chưa quyết có nên theo kế của Trí Liễn hay không, thì có tin báo về: “Bộ tướng của Ngọc Cư đang đóng quân ở Lỗ khoan 76 thì bỗng đâu cả vùng gặp cơn tai biến, khí đốt phun lên dữ dội làm cho đất bằng tụt xuống thành một hố sâu, khiến cho ngựa xe bị chôn vùi, thiệt hại không biết bao nhiêu mà kể”. Điền vội vàng cho quân dò la xem thực hư ra sao, thì được biết thêm rằng sau khi Trần Hồi kéo đám tàn quân ở Lỗ khoan 76 trở về ra mắt Ngọc Cư, Cư giận lắm toan rút gươm ra chém, ba quân xúm lại can mãi Cư mới tha cho, nhưng từ đó sinh lòng chán nản không thiết gì tới việc triều đình nữa.

Rồi bỗng một hôm, Cư không cả tạm biệt bạn bè, chỉ đem theo gia quyến và vài ba tay chân tin cậy bỏ đất Thái Bình vào ở với Liên doanh, quyền hành về tay Trương Thiên nắm giữ. Từ đó quan của Liên Doanh mạnh lên như đại bàng đuợc chấp thêm móng sắc.

Cũng vào năm đó, đất Bắc Hà sinh lọan lạc, các bên chỉ lo thôn tính lẫn nhau, chinh chiến liên miên hao của tốn tiền làm cho lòng dân ngao ngán. Thêm vào đó việc làm cũng hết, lương thưởng hàng năm đều bị cắt giảm một phần khiến đời sống dân tình ngày càng khốn khó. Người đời sau hẳn còn nhớ cái thuở: “Thơ- ông Danh, đanh- ông Thám, cám- ông Nghị, ký- ông Ninh, tình- ông Tuất, phất- ông Hồi, ngồi – ông Tráng, sang- Ông Phúc, tục- ông Chởi, tất tưởi- Phô Chi”.

Giữa lúc ấy lại có tin dữ báo về: “Quân của Liên doanh sắp kéo ra Bắc Bộ”. Triều đình bèn ra chiếu chỉ đòi các bên phải cử tướng tài về kinh kỳ họp bàn việc lớn. Tiếp được chiếu chỉ của Thiên triều. Điền vội cử Phạm Tú cùng Giang Thịnh về kinh thụ giáo.
Lại nói các tướng của Nguyễn Điền lâu nay vẫn đóng quân ở vùng Xuân Thủy, nước mặn đồng chua dân chúng quê mùa nên không hiểu mấy về chốn phồn hoa đô thị. Tới kinh đô chỉ thấy hỏa xa chạy ầm ầm, phố xá chi chít tựa bàn cờ cũng khiến các quan vô cùng kinh ngạc, có ý muốn lưu lại vài hôm cho thỏa cái chí tang bồng. Hai người hỏi thăm vào được đến nơi thì đã thấy mọi người hàng ngũ chỉnh tề, thượng thư Nguyễn Hiệp sửa sang áo mũ nói với bá quan: “ tháng thìn năm nay có 2 sao Thát sát, Đà La chiếu về phương Tốn báo hiệu chuyện chẳng lành. Bóng ngựa lưu tinh lại từ phương Nam sải vó phóng ra mang nhiều tin dữ. Quân của Liên Doanh đã tìm thấy vàng đen ở vùng Bạch Hổ, lại thôn tính các cấu tạo Cau , Dừa, chỉ ngày một ngày hai tất kéo quân ra Bắc Bộ. Quân của Liên doanh động binh phen này, ngòai Ngô Thương San là tay hào kiệt lại có Nguyễn Ngọc Cư ở Thái Bình chạy vào làm ám trợ, còn có các đạo sĩ người Nga có nhiều phép lạ, xông pha trăm trận như vào chỗ không người, chúng thần rất lấy làm lo lắng. Bây giờ chỉ có diệu kế của Văn Cự tiên sinh mới mong cứu được thần dân trăm họ.”
Cả gian điện im lặng vì lo lắng, không hiểu diệu kế đó là gì.

Lại nói Văn Cự tiên sinh vốn xuất thân từ thầy địa lý, nhưng đã nhiều năm xông pha trận mạc nên luồng lạch biển Đông thuộc như ao cá trong nhà. Sau khi dạy cho các quan bài binh bố trận miền Duyên Hải theo phép địa chấn địa tầng, tiên sinh chỉ lên tấm địa đồ Duyên Hải mà hỏi các quan rằng: “ Nếu nay mai quân Lien Doanh chia làm hai ngả, một cánh tiến theo sống Lồi rìa rồi tràn qua Phú Khánh chiếm lấy Đồ Sơn, cánh thứ hai đi tắt qua trũng biển Đông tràn qua đới nâng Hoàng Sa mà tiến vào miền Dinh Cơ, Nam Hải, thì lúc đó e rằng một địa hào Hà Nội không đủ chốn nương thân. Vậy các khanh đừng mắc cái sai lầm của Nước Ngu, nước Quắc khi xưa, xóa bỏ cừu thù, kết làm cái nghĩa môi răng cùng nhau tiến quân chiếm lấy bể Sông Hồng, rồi thừa cơ kéo vào Phú Khánh. Nơi đây mặt Nam dựa vào khối Kon Tum có núi non hiểm trở, Mặt Tây có vùng khâu sông Mã là vùng xung yếu thì lo gì mà không thắng được liên doanh?”. Các quan triều đình cho đó là diệu kế, nhưng còn e biển Đông có nhiều thủy quái lại song lớn gió to. Bỗng một tướng quát to lên rằng: “Thần tuy tuổi đã nhiều nhưng từng quen chinh chiến, muốn được báo đền ơn nước một phen. Nếu việc không thành xin dám đem đầu nộp dưới trướng”.
Mọi người quay lại mới biết người vừa nói họ Nguyễn tên Khuông, làm quan thái úy trong triều. Khuông vốn người sinh hạ ở mạn Hà Tây, thời trẻ từng khăn gói về kinh dùi mài kinh sử, Khuông vốn học rộng biết nhiều, nổi tiếng thông minh nên chưa đầy 4 năm đã học hết chữ thầy, được đặc cách phong làm quan trấn thủ, cầm quân thu phục một vùng từ Thái Thụy tới Quỳnh Côi. Sau trở về làm quan dưới trướng của Ngọc Cư. Khuông vốn có nhiều phép lạ trong việc liên kết địa tầng, nhưng tính cương trực không chịu được sự dèm pha của quân xiểm nịnh, nên được vài năm bèn bỏ Ngọc Cư mà bôn ba hải ngoại học cái lẽ thiệt hơn ở đời, rồi về triều viết binh thư cho ba quân tham khảo. Người đời có thơ rằng:

“Liên kết địa tầng lắm phép hay
Binh thư nghiền ngẫm suốt đêm ngày
Giữa lúc nước nhà cơn bĩ cực
Trung kiên vẫn giữ tấm lòng ngay.”

Đưa bàn tay gày guộc vuốt mái tóc đã điểm màu sương, lão tướng Nguyễn Khuông bừng bừng nét mặt, đưa mắt nhìn suốt hai hàng văn võ bá quan , mọi người bàng hoàng đứng lặng. Văn Cự tiên sinh từ trên bệ rồng bước xuống cảm động nắm chặt tay vị lão thần. Thống đốc Alikha người được mệnh danh là con cá kình vùng Duyên Hải cũng khẳng khái nói rằng: “ Làm tướng đem quân đánh chiếm Hải Phòng, phải được chết trên tàu Bình Minh, ném xác xuống biển cho cá mập ăn mới sướng”.
Người đời sau có thờ rằng:

“Nghe đồn có Nguyễn Văn Kha
Sáng về Xuân Thủy, tối ra Hải Phòng
Bao giờ Dầu Khí thành công
Thế gian sẽ đúc tượng đồng cho anh”.

Nghe Kha nói xong, một tướng rất giỏi là Trần Hồi, bộ tướng của Trương Thiên đập đầu xuống đất mà khóc rằng: “ Vẫn biết kéo quân ra biển Đông là diệu kế, hiềm một nỗi rằng suốt mấy chục năm qua lương bổng ba quân trong cả vào mấy lỗ khoan vùng Kiến Xương Tiền Hải. Nay bỏ đất ấy mà đi, muôn dân biết lấy gì mà sinh sống. Thần lại nghe nói ngoài biển sóng to gió lớn, chinh chiến như Alikha mà còn mấy phen để cho tàu mắc cạn. Nay chưa có thuyền lớn cảng to mà đã kéo quân ra biển Hải Phòng e không khỏi làm mồi cho cá dữ, thật là có tội với dân lành. Hạ thần chưa biết tính sao.”

Văn Cự nghe xong, thì cả cười, bèn rút long ngỗng dắt ở mang tai khoanh ngay mấy vòng trong trên tấm địa đồ miền Duyên Hải, lại trao cho Nguyễn Hiệp lá cờ tiết chế toàn quyền thống lĩnh ba quân, dặn dò mẹo mực cứ thế cứ thế ... mà làm. Thế mới rõ thực là:

“Hợp sức nhau thôn tính Hải Phòng
Làm cho thiên hạ mỏi mòn trông
Tướng tiên phong nếu dùng Nguyễn Hiệp
Việc lớn lo gì chẳng thành công”.

Không biết có bên nào kéo quân ra Hải Phòng hay không, xem hồi sau mới hiểu.

https://vietnampetroleum.forumvi.com


Hội Viên Mới
superpetroHội Viên Mới

superpetro

Truyện này đọc cách đây lâu lắm rồi,giờ đọc lại vẫn thấy hay =D>



Hội Viên Mới
bachphongthuHội Viên Mới

bachphongthu

hehe



Hội Viên Mới
PetrochemicalHội Viên Mới

Petrochemical

Tiểu thuyết quá hay luôn,nhưng đểu cái là đang hay thì hết nửa chừng,chán thế



Sponsored content


Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 1 trong tổng số 1 trang]

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết

 
  • Free forum | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất
© 2012 VNP
FM PunBB - Rip by Lê Tùng

Tạo Nút Like